Ngược dòng thời gian: Sự phát triển của tin nhắn

Tin nhắn SMS đầu tiên được gửi vào ngày 3/12/1992, nó có nội dung “Merry Christmas”. Đó là một tin nhắn thử nghiệm được gửi từ máy tính, dịch vụ này lần đầu tiên được sử dụng cho các doanh nghiệp vào năm 1993.

SMS nhanh chóng trở thành chất keo gắn kết thế giới lại với nhau. Hàng nghìn tỷ tin nhắn được gửi đi mỗi năm và chúng bao gồm từ những tin nhanh giữa bạn bè, các thông báo ngân hàng, thông báo nhà mạng…

Hệ thống SMS này khá hạn chế, nó chỉ hỗ trợ tối đa 160 ký tự. Và những ký tự đó cũng chỉ giới hạn trong bảng chữ cái Latinh cộng với một số dấu câu. Các bảng chữ cái khác cũng được hỗ trợ, nhưng số lượng ký tự tối đa sẽ bị giảm xuống chỉ còn 70.

Sau đó, SMS liên kết được phát triển để giảm bớt vấn đề trên. Các thức hoạt động rất đơn giản, tin nhắn dài được chia thành nhiều tin nhắn văn bản với số ký tự tiêu chuẩn, nó sẽ lần lượt được gửi đến người nhận và sau đó được liên kết lại với nhau thành 1 nội dung dài như ban đầu. Tất nhiên, 1 tin nhắn dài sẽ có giá bằng nhiều tin nhắn phụ cộng lại.

Ngược dòng thời gian: Sự phát triển của tin nhắn

Chính sự giới hạn 160 ký tự, tốc độ gõ cho mỗi tin nhắn đã cho ra đời một hình thức tin nhắn mới mà người ta gọi là textese hay txt-spk gồm các cách viết tắt không cần theo nguyên tắc ngữ pháp thông thường. Sau đó, người ta còn tạo nên các ký tự để biểu đạt cảm xúc như mặt cười, mặt nhăn, mặt buồn. Chính sự ảnh hưởng sâu sắc của kiểu “textese” đã khiến từ điển Oxford English phải công nhận LOL (laughing out loud), OMG (Oh my God), BFF (best friends forever) vào danh mục các từ vựng.

Sự phát triển tiếp theo là EMS – Dịch vụ nhắn tin nâng cao. Nó đã thêm hỗ trợ cho định dạng văn bản (ví dụ: Văn bản in đậm hoặc in nghiêng, kích thước phông chữ khác nhau), nhưng quan trọng hơn là cho phép điện thoại gửi dữ liệu nhị phân.

Điều này có nghĩa là nhạc chuông, biểu tượng và thậm chí là các hoạt cảnh đơn giản có thể được gửi đến điện thoại qua mạng. Các biểu tượng (hình ảnh đen trắng đơn giản) có thể được trộn lẫn với văn bản, và đây chính là 1 dạng biểu tượng cảm xúc ban đầu.

EMS được xây dựng dựa trên SMS, do đó, nó vẫn được chuyển thành các khối 140 byte (SMS sử dụng bảng chữ cái 7 bit, 140 byte/7 bit = 160 ký tự). Ví dụ: hình ảnh 32 x 32 px mất 128 byte để mã hóa, gần như là một tin nhắn SMS đầy đủ (dài 160 ký tự).

Ngược dòng thời gian: Sự phát triển của tin nhắn

Có nhiều kế hoạch mở rộng EMS đầy tham vọng để hỗ trợ hình ảnh màu, nén dữ liệu và hơn thế nữa, nhưng kế hoạch đó đã không đi quá xa.

EMS đã được thay thế bằng MMS, được hỗ trợ bởi sự phát triển của điện thoại tích hợp camera. Tin nhắn MMS có thể chứa ảnh, bản ghi âm hoặc thậm chí là kèm một số tệp đa phương tiện.

Giới hạn kích thước tệp là hàng trăm kilobyte (chúng có thể bị thay đổi bởi nhà cung cấp dịch vụ), nó linh hoạt hơn nhiều so với EMS. Thêm vào đó, camera trên điện thoại cũng đã tăng độ phân giải lên vài MP.

Điện thoại BlackBerry có một cách tiếp cận khác – họ sử dụng email. Điều này đã cứu họ những rắc rối về các bằng sáng chế, phát minh vì email hỗ trợ định dạng văn bản và đính kèm tệp (đa phương tiện…).

Vâng, với những biểu tượng cảm xúc ban đầu trên SMS. Biểu tượng cảm xúc thực sự lần đầu tiên xuất hiện trên điện thoại Nhật Bản vào năm 1999, các biểu tượng được tạo ra bởi các nhà thiết kế giao diện và nhà phát minh Shigetaka Kurita.

Kể từ đó, Hiệp hội Unicode đã nhận trách nhiệm xác định biểu tượng cảm xúc mới, nhưng tiêu chuẩn hóa vẫn là một vấn đề. Ví dụ như các vấn đề về biểu tượng cảm xúc gây ra các thông tin sai lệch trong thực tế…

Ví dụ nhìn vào khuôn mặt nhăn nhó, nó có nghĩa là để truyền đạt sự lúng túng hoặc lo lắng, nhưng các phiên bản đầu tiên của Android đã biến nó thành ý nghĩa của sự tức giận.

Ngược dòng thời gian: Sự phát triển của tin nhắn

Giai đoạn tiếp theo trong quá trình tiến hóa là RCS – Dịch vụ truyền thông phong phú. Nói tóm lại, nó nhằm mục đích trở thành Android iMessage. Nhưng RCS là một dịch vụ phức tạp, có nhiều vấn đề xung quanh sự phát triển của dịch vụ này, vì vậy sẽ phải có một bài viết riêng cho RCS.

Nguồn: Gsmarena